Thứ Ba, 12 tháng 4, 2022

Giỗ Tổ Hùng Vương Do CDVNHTĐ tổ chức..

Giỗ Tổ Hùng Vương

 Giỗ Tổ Hùng Vương 


Kính thưa quý vị,

Cội nguồn Việt tộc khởi từ Kinh Dương Vương, Đức Lạc Long Quân hết hợp cùng Long Nữ Âu Cơ được gọi một cách thân thương là Bố Rồng Mẹ Tiên hay Bố Lạc Mẹ Âu. Lập đền thờ Quốc Tổ Hùng Vương tại tỉnh Phú Thọ (Bắc Việt). Hằng năm tổ chức trọng thể ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba âm lịch. Ngày giỗ Tổ được xem như ngày của “Bố Rồng Mẹ Tiên” để đồng bào cả nước tưởng nhớ công ơn của người khai sáng nguồn cội giống giòng và mỗi người cũng nhớ đến Bố Mẹ, người đã sinh thành dưỡng dục chúng ta nên người. Niềm tự hào về cội nguồn con Rồng cháu Tiên cùng một bào thai Mẹ nên đối với người Việt, thì lòng yêu nước luôn luôn đi đôi với tình thương nòi giống. Yêu nước thương nòi, đó chính là đặc trưng của Việt tộc.

Thời đại Hùng Vương khởi từ năm Nhâm Tuất 2879 trước DL là năm Lộc Tục lên ngôi, lấy hiệu là Kinh Dương Vương và đặt tên nước là Xích Quỷ.

Kinh Dương Vương truyền ngôi cho con là Sùng Lãm năm 2793 trước Dương Lịch, Sùng Lãm lên ngôi lấy hiệu là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân thuộc dòng Thần Nông phương Nam lấy công chúa Âu Cơ, con gái của Đế Lai dòng Thần Nông phương Bắc sinh ra trăm trứng nở thành một trăm người con trai, chính là biểu tượng của sự hợp nhất của 2 dòng Thần Nông phương Nam và phương Bắc.

Truyền thuyết cũng cho biết rằng, Mẹ Âu Cơ cùng 50 người con ở lại vùng cao nguyên Phong Châu rồi cùng suy cử người con trưởng lên ngôi lấy hiệu là Hùng Vương. Bố Lạc Long dẫn 50 con về miền sông nước Thành Đô Tứ Xuyên ở phương Nam để khai khẩn vùng đất mới bồi, mỗi người con đi một nơi lập ấp trở thành một chi tộc Việt. Cổ sử Trung Quốc ghi rõ các nước Bách Việt nằm rải rác khắp Nam Trung Hoa trải dài từ Triết Giang ở miền duyên hải phía Đông sang Ba Thục, Vân Nam ở phía Tây. Sách sử Trung Quốc ghi Đông Việt là nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn ở Triết Giang, Mân Việt ở Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Hồ Nam, Dương Việt ở Giang Tây, Âu Việt ở Quảng Tây, Nam Việt ở Quảng Đông, Điền Việt ở Vân Nam. Lạc Việt ở xen kẽ với các chi tộc khác nhưng tập trung nhiều nhất ở Quảng Tây và Bắc Việt Nam. Sách sử cổ Trung Quốc ghi Bách Việt để chỉ một trăm chi tộc Việt nên ngươi Việt mới gọi là "Trăm Họ" là "Bách Tính" hay "Bá Tánh". Thực tế trên đã chứng tỏ tính hiện thực của huyền thoại Rồng Tiên.

Theo những nguồn sử liệu thì thời đại Hùng Vương gồm 18 đời kể từ khi Kinh Dương Vương lên ngôi năm 2879 trước DL và chấm dứt vào đời Hùng Duệ Vương 258 trước DL. Như vậy thời đại Hùng Vương kéo dài 2622 năm, tính ra trung bình mỗi đời Vua trị vì khoảng 150 năm.

Công trình nghiên cứu của Trần Huy Bá về “Hùng Vương Sự Tích Ngọc Phả Cổ Truyện” của Nguyễn Như Đỗ thời Lê Thánh Tôn cho thấy thời đại Hùng Vương kéo dài 2622 năm gồm 47 đời vua. Theo bản “Hùng Vương Ngọc Phả” thì đời vua Chữ Hán là "Thế", "Thế" không phải chỉ một đời vua mà là một dòng vua, một triều đại gồm nhiều đời vua. Riêng chi thứ 18, chi cuối cùng của thời đại Hùng Vương gồm 3 đời vua trị vì suốt 150 năm. Hiện ở Đình Tây Đằng, huyện Ba Vì tỉnh Vĩnh Phú còn thờ bài vị "Tam Vị Quốc Chúa". Chi này chấm dứt năm Quý Mão 258 TDL vào cuối đời Chu.

Kính thưa quý vị,

Việt Nam là quốc gia duy nhất trên thế giới có vị Quốc Tổ đã khai mở dân tộc Việt và truyền thống tôn thờ Quốc Tổ như một Nhân Thần truyền lưu gần 5 ngàn năm lịch sử . Chính từ tâm tương" "Quốc Tổ" Hùng Vương đã dẫn đến ý niệm về một "Tổ Quốc" Việt Nam và cũng từ ý niệm một trăm con cùng chung một bào thai của Mẹ Âu Cơ nên chỉ có Việt Nam mới có được hai chữ "Đồng Bào":
Bọc điều trăm họ thai chung
Đồng Bào hai tiếng vô cùng Việt Nam.

Ngày hôm nay, chúng ta cử hành Lễ Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương nhằm thể hiện tấm lòng thành kính của chúng ta đối với Quốc Tổ, Người khai mở ra nước Việt.

Hình tượng bố Rồng mẹ Tiên mang tính thần kỳ lịch sử, là Bố Lạc Mẹ Âu trong thực tế cuộc sống nên vừa là người anh hùng huyền thoại dựng nước, vừa là anh hùng khai sáng văn hóa dân tộc. Từ đó đã dẫn tới đạo thờ cúng ông bà Tiên Tổ, tôn thờ những “Nhân Thần” đã truyền lưu sự sống cho cả dân tộc cũng như cho bản thân mỗi người chúng ta.

Truyền thống cao đẹp tôn thờ sùng kính, biểu lộ lòng tri ân Đức Quốc Tổ Quốc Mẫu, các anh hùng dân tộc cũng như thờ cúng Ông Bà Tiên Tổ biểu thị lòng hiếu thảo đối với những người sinh thành dưỡng dục, truyền lưu sự sống cho mình đã là sợi dây tình cảm thiêng liêng phối kết con dân Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Nhớ xưa Quốc Tổ mở nền,
Ngàn năm văn hiến sử thiêng hào hùng.

Trân trọng kính chào toàn thể quý vị 

Cao Nguyên 
Giỗ Tổ Hùng Vương 2019



Hậu Duệ Việt Nam Cộng Hòa

 Hậu Duệ Việt Nam Cộng Hòa

Hậu Duệ Việt Nam Cộng Hòa
nguồn sinh lực mới Cha, Ông lưu truyền
bảo trì di huấn Tổ Tiên
phát huy truyền thống thanh niên Lạc Hồng

Ơn Đồng Bào - Nghĩa Núi Sông
kết Tâm hợp Lực đồng lòng cùng đi
hành trình Nhân Ái Lương Tri
vinh danh Hùng Sử khắc ghi Cội Nguồn

Việt Nam Tổ Quốc trong Tâm
phất cờ Dân Tộc thực hành ước mơ
Quê Hương khôi phục màu cờ
Vinh Quang hưng khởi cơ đồ Hùng Vương

nắm tay đoàn kết Yêu Thương
Việt Nam Hậu Duệ mở chương sử hồng
đi theo tiếng gọi Cha, Ông
đền Ơn đáp Nghĩa sống không thẹn Đời 

Cao Nguyên
---
Lễ Ra Mắt Hậu Duệ VNCH Hải Ngoại Tại Washington. DC - 3/3/2018

Chủ Nhật, 10 tháng 4, 2022

Người Về.




Người Về

 Người Về 

 

người về vui với lòng ta chút 
giữa tháng Tư buồn chuyện điếu tang 
nhìn vết đạn xoáy bên vành ngực 
gọi chào nhau nghẹn nỗi sa trường 

còn có gì đâu mà khoản đãi 
ngoại trừ dòng chữ rót đau thương 
ly biệt xin thôi đừng nhắc mãi 
buồn nẫu lòng ta hoài cố hương 

người về cũng chỉ là nhân ảnh 
ly rượu mời sóng sánh khói hương 
Xuân muộn hay trời Đông Bắc lạnh 
mà hoa chạnh nở đóa vô thường 

tiễn người buồn không đưa tay vẫy 
sợ lệ trào biết lấy chi đong 
mà tim ta như người thấy đấy 
nước mắt hòa theo máu rưng rưng! 

Cao Nguyên  

---
Người Về thơ Cao Nguyên | nhạc & trình bày Dzuy Lynh

https://www.youtube.com/watch?v=WODHuNx-juY

Thứ Tư, 30 tháng 3, 2022

Giọt lệ hồng



"Giọt Lệ Hồng"  được nhạc sĩ Vĩnh Điện  phổ nhạc 
và ca sĩ Tố Lan trình bày trong đêm 30/4/2014 tại Paris  

Chợt Tháng Tư

 


chợt Tháng Tư


                                                   (Gởi Kim Tuấn và những người
mời nhau thơ rượu cùng thời hỏa châu)

Người ra đi bỏ tình trên núi
hồi âm thơ vọng cuối chân đèo
ơi Mang Giang, Phượng Hoàng, Ngoạn Mục (*)
vách đá buồn thao thức ru đời!

Chợt Tháng Tư nhớ Người từ ấy
viết thơ trên chiến lũy Trường Sơn
mũi kiếm rạch chữ rờn rợn đất
đầu súng chao thơ vất lên nguồn!

đêm Pleime nghe hồn núi hát
nhớ quá chừng khúc nhạc Người buông
thác Yaly vẫn cuồng sóng bạc
mà Chư Pao lạnh ngắt lòng thơ!

Đồi Đức Mẹ ta chờ Người đấy
về mà nghe hành khúc sương mờ (**)
ngồi uống rượu bên mồ cỏ dại
rót thơ qua từng dãy chiến hào!

Cao Nguyên
-----------------------
(*) Những tên Đèo nối Nha Trang- Darlac- Pleiku
(**) Thơ Cao Nguyên
(***) Pleime, Chư Pao, Yaly, Đồi Đức Mẹ...
những địa danh ở Pleiku

Thứ Ba, 29 tháng 3, 2022

Tổ Quốc Màu Cờ


Mỗi độ tháng Tư về là lòng tôi lại thấy bâng khuâng với một nỗi niềm chua xót, u buồn. Dù chỉ là nạn nhân của dư chấn "Tháng Tư Đen", nhưng tôi không khỏi xót xa bùi ngùi cho một hòa bình bị bõ lỡ; cho những số phận nghiệt ngã của quân nhân cán chính Việt Nam Cộng Hòa trong những trại cải tạo man rợ hàng chục năm trời; cho hàng hàng lớp lớp những đồng bào bất hạnh đã bỏ mạng nơi biên giới rừng sâu hay ngoài khơi biển cả; cho một thế hệ bị đánh cắp mất tuổi trẻ, tương lai; và cho Quê Hương thêm một lần bị bóng đêm độc tài bao phủ.
Khi đọc bài thơ của thi sĩ Cao Nguyên, tôi liền có một sự đồng cảm và một cảm súc mạnh mẽ đã khiến tôi viết lên ca khúc Tổ Quốc Màu Cờ. Video này là lần tôi trình diễn live tại Houston. Tổ Quốc Màu Cờ Thơ : Cao Nguyên Nhạc : Đình Đại Đã cuối Tháng Tư . Trời không có nắng Đất buồn, cỏ úa màu Nhìn giọt mưa lăn bên ngoài cửa vắng Nhớ mắt người đẫm lệ dưới khăn tang! Vẫn thế bao năm Bao mùa thao thức Ngắm lặng dòng miên sầu Chảy mãi không ngưng qua nghìn dâu bể Mỗi chặng nhìn, hỏi: Tổ Quốc ta đâu? Tổ Quốc đây ! Trong con tim rướm lệ Khóc Quê Hương sông núi điêu tàn Hỏi nhân gian Dân Tộc nào đau thương thế Mà hằng triệu người phải bỏ nước ra đi! Phải ra đi để tránh những đòn thù Phải ra đi để dành khí tiết gởi về sau Phải ra đi dẫu nhớ Quê mình da diết Nhưng phải đi để giữ Tổ Quốc màu cờ

Thứ Hai, 28 tháng 3, 2022

Còn Gì Để Viết

 Còn Gì Để Viết

Em hỏi - Bây giờ anh có còn thích viết? Như em thấy đấy, anh còn gì tha thiết?
Viết về Tình Yêu ư ? Vẫn những lời thương nhớ, những đau buồn vì xa xôi cách trở! Mà hằng ngày em đọc rất nhiều ở những trang Thơ trên online, trên báo giấy...! Thậm chí, cả trên những bức tường ở những công viên. Mọi người đã phung phí thời gian và chữ nghĩa vào đó quá nhiều. Rồi được gì hở em? Ngoài những nhớ thương mà mình đã biết. Ngoài những tin yêu mà mình sợ mất!
Sự tha thiết hôm nay, ngày mai thành hoài niệm! Những mất mát trong quá khứ cho ta hôm nay có những nỗi đau! Nhưng anh nghĩ những nỗi đau này không đủ lớn bằng nỗi đau ở chung quanh ta. Những đứa bé chưa bao giờ được đi học! Những cô gái phải sống trong các ổ mãi dâm, hay trong tay những tên cuồng tâm thô bạo! Những người già gần chết không có người chăm sóc!
Một cuộc đời là thế nào hở em? Tiếng khóc lăn từ trên nôi xuống, chảy dọc theo tháng năm của bước chân mình.
Từng vũng nước mắt và máu loang lổ quanh ta hơn nửa thế kỷ qua, là số phận nghiệt ngã mà mình phải trải! Và thế là cuộc đời?
Anh muốn viết - và anh đã viết - về những cảm nhận đó, để nói với chính mình như một nhắc nhở về ý nghĩa của một cuộc đời.
Có ai muốn chia xẻ với mình không?
Có chứ em.
Chẳng qua là người ta không muốn đèo bồng thêm những đau buồn, khi mà chính họ đã phải vất bỏ bớt trên đường đi tới.
Bởi vì nó quá nặng, chỉ sợ không mang nổi suốt đời. Chính anh và em cũng vậy.
Liệu mình còn mang được bao nhiêu nỗi đau vào người? Anh sợ mình cũng không kham nổi, nếu mãi viết về những nỗi đắng cay.
Nhưng bỏ viết hẳn ư?
Không. Chắc hẳn là không thể khi biết mình không chỉ sống vì chính mình trước những tang thương của sông núi, trước những khổ đau của dân tộc.
Giáp mặt với bối cảnh đó trong từng đoạn thời gian đi qua, có bao nhiêu những tráng khúc được viết nên bởi Văn Thơ và Ca Nhạc? Nếu có, cũng dễ dàng bị nhấn chìm trong bụi khói của ngọn lửa chiến tranh. Thậm chí những tình khúc cũng nặng lời tang chế ngậm ngùi bởi mức độ tàn khốc, ác liệt của cuộc chiến bi thương!
Đỉnh cao của sự bi thương thoát lên tiếng thét gào thảm thiết từ các hố chôn người tập thể vào đầu Xuân 1968 ở Huế, và cái chết bi thảm của hằng triệu người trong các cuộc triệt thoái và di tản đã làm quặn đau mọi trái tim người.
Đến nỗi vết rạn nứt trong tim mãi còn buốt đau sau hơn 45 năm qua, và mãi mãi không thể nào lành vết và yên ả. Có ai dám tự đứng ra nhận lấy cái trách nhiệm về vết chém lịch sử này không
Chắc là Không!
Càng không chắc về một trách nhiệm với non sông, với dân tộc về một cuộc tháo chạy:
"... những cuộc đời đi quên lời tiễn biệt
nghẹn lòng đau tha thiết biết chừng nào!"
Và chính sự tha thiết đến nghẹn lời mà anh còn tiếp tục viết khi thấy còn đủ sức để viết về anh, về bạn anh, về những thân thương của anh, suốt hành trình một đời đi trong gió lốc của một vận nước không may. Dẫu gì anh cũng muốn để lại cho con cháu và những người bạn trẻ của anh một chút di ngôn:
"Hãy tiếp bước Cha Ông đi về Nguồn bằng cả tấm lòng và nhiệt huyết như khi Cha Ông nhập cuộc lên đường giữ và dựng Nước, với sự thấu hiểu về nguyên ủy lưu vong của gia đình, của những thân thương. Để biết mình phải làm gì không phụ lòng những di ngôn gởi lại. Việt Nam vẫn là cái nôi hùng khí đáng tự hào".
Viết để nối tiếp lời theo những người đã viết về thiên anh hùng sử Việt Nam. Rất thật, rất chân thành về Người và Đất quê hương trong khát vọng hồi sinh!
Cao Nguyên

Thư Viện

Tuyển Tập Thơ Văn Bến Trăng

Tuyển Tập Thơ Văn Bến Trăng Lời ngỏ Hội Quán Bến Trăng được thành lập từ mối giao tình thân quí với các Anh Chị Em mà Cao Nguyên đã biết tro...