Tương tri là những dòng nghĩ thuần thành dẫn vào thơ tôi. Mở ra niềm vui vực tôi đứng lên giữa cuộc đời có quá nhiều phế tích. Những phế tích của nguồn cội yêu thương bị chủ thuyết hiện sinh tẩy xóa và bào mòn nhân bản.
Vì khát vọng phục hưng nhân bản, phải đánh thức niềm tin từ điêu tàn hoang hóa. Nên những phế tích hóa thơ thành ngôn từ chân thiện. Với vai trò của người thơ tự nhận mình là môn đệ thuần thành của Thơ Giáo. Chữ nghĩa tôi phải lên đường du thuyết đất trổ mùa xanh, vượt lên trên khắc nghiệt của căn nguyên phế tích.
Hồn Tổ Quốc ngậm ngùi bay vất vưởng trên hành trình khiên cưỡng lưu vong, sử thi thêm một lần bi hận. Sự bi hận truyền kiếp trong dòng sinh tồn dân tộc qua những cột mốc thời gian lũ lượt từng đoàn người rời bỏ quê hương đất tổ để tìm sống thoát khỏi bạo quyền hiểm ác và thâm độc.
Nếu người hỏi: Viết để làm gì, và viết cho ai? Xin thưa: Trước tiên viết cho tôi để thỏa mãn cá tính muốn thoát ly các vòng xoắn của chủ thuyết độc tôn khắc kỷ. Viết để chữ nghĩa tự khẳng định mình qua gian truân của dòng sống.
Giữa chuỗi thời gian truân chuyên, đôi khi chọn dịp nhàn cư, khoát y trang lữ khách thả bộ về nguồn giữa chập chùng sương tuyết lạnh xứ người. Khi xuyên qua trũng buồn nhân thế, tâm khách không khỏi chùng, chỉ vì thương quê sữa trộn máu đào, mà lòng nôn nao hướng về cố thổ . Dẫu biết phải đi qua những vùng hoang địa, chỉ còn tro bụi ghi dấu ấn một thời binh lửa. Mồ hôi và máu đã khô dưới bao mùa lá đổ.
Khi đứng giữa ranh giới quê người - quê ta, khách mới thấy hết nỗi cô đơn. Như cái thân đứng trên cái bóng của chính mình ngã xuống vệ đường giữa hai ngả đông – tây. Khách lẩm bẩm: Đúng ta vừa là khách của quê người, vừa là khách của quê ta. Nản lòng chùng bước, khách ghé vào lữ quán uống một tách trà may ra tìm được chút hương quê.
Chiều rơi, trà nhạt, tình chơi vơi. Kẻ đến người đi họa hoằn lắm gặp nhau bằng nụ cười quan ải đồng cảm nhìn áng mây trôi về phương trời đã một thời lặng nghe gió hú trong tầm đạn bay xé toạc tình người. Khách chợt thèm một bát rượu cay và ngã mình vào chỗ ngồi vừa khuyết để được say. nghe âm vang lời sử kinh trong cổ thi:
phải chi ngày chẳng mệt nhừ
đêm nghe tình hát mộng từ chân duyên
quên đời vừa ngấp nghé nghiêng
chỉ hình đối bóng mà huyên thuyên lời
phải chi ngày dợm tốt trời
đêm dư sức vượt đời khơi khơi buồn
tha hồ thơ nõn nà buông
dọc theo thiên lý ngựa giòn vó qua
phải chi ngày góa phụ xa
đêm gom thư cảo ta bà đốt chơi
tàn tro chôn khuất lệ ngời
phẳng lì bia đá nhạt lời di ngôn
phải chi mai ửng trời hồng
bạn-ta đối ẩm ngẫm dòng cổ thi
rảnh tâm thăm cuộc triều nghi
ngắm trăng văn hiến tương tri khói trầm!
Cao Nguyên